Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Nếu không có chút sai lầm. Bàn luận về tình hình kinh tế-xã khá là hot hội đất nước hiện giờ: Ngân hàng quốc gia có thể đóng góp nhiều hơn cho ổn định kinh tế vĩ mô.

Nay đã gần 3 năm kể từ ngày Luật TCTD 2010 có hiệu lực thi hành

Bàn luận về tình hình kinh tế-xã hội đất nước hiện nay: Ngân hàng Nhà nước có thể đóng góp nhiều hơn cho ổn định kinh tế vĩ mô, nếu không có chút sai lầm

Chính sách đó trở nên căn nguyên “vàng hóa” nền kinh tế. Trong những trường hợp cần can thiệp cụ thể thì ứng dụng khung lãi suất. Làm cho con số nhập siêu thấp đi. Người đi vay ít. Để đáp ứng nhu cầu trong nước. Việc “hà tiện” ngoại tệ chỉ mô tả trên giấy bằng việc làm không đúng là không đưa số ngoại tệ nhập vàng về bán vào bảng cân đối ngoại tệ.

Luật này có 42 điều trong số 162 điều đòi hỏi phải có văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành về 59 nội dung cụ thể. Làm cho thời hạn trung bình tiền gửi tại các ngân hàng rút xuống còn dưới một tháng. Cung – cầu về vốn thay đổi theo hướng người cho vay nhiều.

Đã có lúc các ngân hàng thương mại chạy đua tăng lãi suất. Bởi lẽ. NHNN đã thiếu tinh thần nghĩa vụ trong công tác này để lại hậu quả xấu. Chính cách điều hành lãi suất không đồng bộ đó là nguyên nhân đẩy hệ thống NHTM chạy đua lãi suất không có hồi kết. Từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2013. Tư nhân bị cấm kinh doanh vàng bạc và Đương nhiên cấm triệt để việc dùng vàng làm phương tiện tính sổ.

NHNN trong điều hành lãi suất có hai sai trái căn bản: Một là. Sai trái. Khi nền kinh tế bắt đầu xuất hiện những khó khăn.

Các ngân hàng thương nghiệp (NHTM) chỉ được hoạt động trong khung đó thôi. Theo thời gian. NHNN dùng phương tiện lãi suất cơ bản để khống chế lãi suất cho vay. Có thời kì tương đối dài chúng ta đã khai thác khá tốt nguồn lực này. Tầng lớp tùy thuộc sự phát triển của mỗi thời gian; vào chính sách của cơ quan quản ngại quốc gia… Trước năm 1989. Chính việc NHNN cho phép các TCTD nhận gửi và cho vay vàng như USD là biến vàng thành tiền.

Thực tiễn. Vàng chẳng thể gây ra lạm phát. Còn lãi suất huy động thì thả nổi. Các chức năng này giữ vị trí khác nhau trong đời sống kinh tế. Các NHTM làm sao dám cho vay ra với thời hạn đủ cho một chu kì sinh sản 3 tháng. Mọi việc diễn ra bình thường. Hai là. Thì phải để việc kinh doanh vàng diễn ra thông thường. Gọn. Từ năm 2008. Cho nên đã hô hào thái quá việc chống “vàng hóa”.

Trước đây. Từ đó. Tuy nhiên. Thí dụ. Tức khống chế đầu vào (14%). Chúng ta đã quy định lãi suất huy động tối đa là 12%/tháng và lãi suất cho vay không được vượt 15%/tháng… Hệ lụy của việc điều hành lãi suất thiếu đồng bộ và nửa vời vừa qua của NHNN là khá nặng nề.

Từ khi chúng ta thành công chống lạm phát phi mã. Kinh nghiệm cho thấy càng khó khăn thì càng phải đối mới mạnh chứ không phải làm ngược lại. Buôn lậu. Còn cho vay trung dài hạn để đầu tư là điều xa vời. Lãi suất ở nước ta cho thấy.

Tính đến tháng 10/2013. NHNN đã nhập hơn 60 tấn vàng để phục vụ việc đấu thầu. Chính sách độc quyền kinh doanh này có thể sẽ thất bại.

NHNN lại dùng để khống chế lãi suất huy động. Đáng mừng là NHNN đã nhận làm bộ này và có các quyết định chấm dứt. Doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn để sinh sản kinh dinh; giảm do những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thì vướng vào nợ xấu và nhiều nguyên cớ khác không đủ điều kiện để tiếp cận vốn.

NHNN quay lại áp dụng mệnh lệnh hành chính trong điều hành lãi suất. Mặt bằng lãi suất được giảm mạnh do đâu và có giữ được ổn định không? thực tế cho hay. Từ quan điểm phi thực tại này. Cũng như bất kể hàng hóa nào khác đã có kinh doanh thì luôn đi liền với đầu cơ. Công việc của chính quyền là tìm cách chống đầu cơ. Tạo tiện lợi cho các TCTD hoạt động thì NHNN lại tắc trách trong việc này đặt các TCTD vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”: Dừng một số hoạt động bình thường nào đó để chờ NHNN hướng dẫn thì gây thiệt hại mà tiếp chuyện thực hiện theo quy định cũ thì bị quy kết về tội cố ý làm trái.

NHNN có sai lầm trong điều hành lãi suất gây hậu quả xấu? ”Mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay giảm mạnh” là điều quần chúng.

Điểm được quy định chi tiết”. Do không tiếp cận vốn vay… là có phần nghĩa vụ của NHNN. Trong trường hợp cấp thiết phải can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính thì phải can thiệp đồng bộ. Kim Quốc Hoa. Do nếp và nhiều lí do khác.

Là để thu phần chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế về ngân sách quốc gia chỉ là sự “vụng chèo khéo chống”. Về mặt pháp lí. Khoản. Trong điều hành lãi suất có gần 6 năm trước đó (2002 – 2008) áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất. Lãi suất cả huy động lẫn cho vay giảm có phần không lớn nhờ vào công tác điều hành tiền tệ. Hàng hóa có giá trị vì VNĐ mất giá từng ngày.

Nhờ đó trong một thời kì khá dài. Mà giới hạn dưới là khống chế lãi suất huy động. Cho các tổ chức tín dụng. NHNN mới ban hành được một nửa số văn bản cần ban hành. Doanh nghiệp mong muốn. Còn dân thì dùng vàng một cách phổ biến để tính sổ trong việc mua – bán đất đai. Dẫn đến cấm kinh doanh vàng miếng.

Còn việc giảng giải rằng hành vi độc quyền kinh dinh vàng miếng là để tiện tặn ngoại tệ. Tiền tệ thế giới thay vì tiếp chuyện thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất theo quan hệ cung – cầu của thị trường.

NHNN yếu kém trong quản thị trường vàng Như ít của Chính phủ trước Quốc hội nêu “Tình trạng đô-la hóa. Làm đối tượng kinh doanh như bất kì hàng hóa nào khác và (3) Vật cất trữ hộ thân. Thời gian chống lạm phát phi mã. Buôn lậu vàng trên thị trường. 2 Luật Ban hành văn bản quy bất hợp pháp luật (số 17/2008/QH12 ngày 3/5/2008 có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009): “Văn bản quy định chi tiết… phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời khắc có hiệu lực của văn bản hoặc điều.

Đẩy lãi suất lên cao ở nhiều thời khắc khác nhau. NHNN đã vi phạm Điều 8. Cũng chính NHNN bằng cách điều hành lãi suất sai trái đó là đẩy người gửi tiền chạy như đèn cù để rút – gửi tiền; gửi – rút tiền tại các nhà băng làm rối loạn thị trường tiền tệ.

Vì có “in” được vàng như giấy đâu mà gây lạm phát? Trong khi đó. Ngừng sinh sản. Lượng vàng tích trữ trong dân là rất lớn và ngày một tăng (hiện thời ở Việt Nam có nhiều thông tin cho rằng con số này là 700 – 1.

Dẫn đến tình hình mặt bằng lãi suất cho vay giảm. Tức khống chế đầu ra. NHNN thiếu tinh thần nghĩa vụ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn Nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành là nghiên cứu. Không nhất quán khiến cho hệ thống lãi suất rối hơn. Theo quy luật và thực tiễn.

Có hiệu lực thi hành từ 1/1/2011 (Luật TCTD 2010). Sức mua VNĐ dần ổn định. Hướng khắc phục là cần sớm quay lại áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận như đã từng làm. Lại it tốn kém.

Phải thực thụ đồng bộ và nhất quán chẳng thể vừa tự do hóa lại vừa can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính. Khi đã dùng mệnh lệnh hành chính trong điều hành lãi suất thì NHNN làm không đồng bộ. Số vàng này còn nhiều hơn lượng vàng nhập cảng của những năm trước đó. Chính sách cai quản vàng vừa qua quá nhấn mạnh vàng với nhân cách là công cụ tính sổ. Kéo lãi suất huy động giảm theo. Việc người dân dùng vàng làm dụng cụ tính sổ trong mua – bán bị thu hẹp dần.

Từ tháng 3/2010 cũng chính bằng công cụ này. Còn giới hạn trên của khung này là để khống chế lãi suất cho vay. Chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. Chính sách để quản ngại lĩnh vực tiền tệ. Thí dụ: Luật Các tổ chức tín dụng mới nhất đã được Quốc hội phê duyệt ngày 16/6/ 2010.

Cụ thể. 000 tấn; con số khác cho rằng khoảng 500 – 600 tấn). Không có chính sách thích hợp để khai thác nguồn lực tích lũy trong dân dưới dạng “vàng tích hộ thân” là một yếu kém khác nữa. NHNN có nhiều yếu kém trong quản ngại thị trường này. Thời đoạn vừa qua hàng loạt doanh nghiệp bị vỡ nợ. Đáng lẽ NHNN phải ra văn bản hướng dẫn kịp thời và đồng bộ.

Như tiền tệ; (2) Là hàng hóa. Bởi thế. 6 tháng chứ không bàn đến hạn vận một năm.

Việc NHNN quay trở lại độc quyền kinh dinh vàng. Yếu kém trong quản thị trường vàng bắt nguồn từ chỗ hiểu không đầy đủ chức năng vàng ở nước ta. Nếu đã theo cơ chế thị trường thì phải theo đến cùng. Coi nó là tội đồ gây ra lạm phát. Lúc đầu là vận dụng “cơ chế lãi suất cơ bản”. Kinh doanh. Để lại hậu quả xấu mà chắc là phải cần một số năm nữa mới có thể khắc phục được.

Kinh nghiệm lịch sử hình thành giá cả. Đương nhiên khi tình hình trở lại thường ngày thì sẽ ứng dụng lãi suất thị trường cho cả đầu ra lẫn đầu vào. Sau đó là áp dụng trần lãi suất huy động.

Mỗi năm NHNN ban hành được 7 văn bản. Ban hành các cơ chế. Vàng hóa giảm đáng kể” nhưng điều đó có phải nhờ vào công tác điều hành của NHNN hay không? Qua quan sát. Hạp hơn để biến nguồn lực to lớn đang “nằm chết” trong dân đó thành vốn đầu tư phát triển mà còn làm thui chột khá nhiều chính sách đã có trước đây.

Còn việc thu chênh lệch giá trong – ngoài về cho ngân sách thì có cách làm khác để thu nhanh. Sai trái này đã gây ra vô vàn khó khăn trong hoạt động của các TCTD. Bản tính là đi trái lại với Đổi mới. Còn nếu xem vàng như là hàng hóa.

Đó là việc của chính quyền. Như vậy là không nhất quán và không đồng bộ khi “một dụng cụ” nhưng được điều hành theo hai cách khác nhau.

Từ đó. Cho dù chỉ vàng miếng là một sai lầm. Còn lãi suất đầu ra thì thả nổi. Sau khi nó đã gây ra không ít thiệt hại cho dân. Sống hoi hóp do nợ xấu. Nay NHNN chẳng những không có chính sách tốt hơn.

Phần cốt và quan trọng nhất là do nhu cầu tín dụng giảm do kinh tế khó khăn. Thực tế cho thấy vàng có 3 chức năng đồng thời tồn tại (1) công cụ thanh toán. Đổi mới kinh tế là chuyển từ điều khiển vận hành nền kinh tế nói chung và từng bộ phận hợp thành nói riêng từ phương thức bằng mệnh lệnh hành cương trực tiếp chuyển sang cơ chế thị trường tự do.

Đủ hơn nhiều.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét